Việt Nam có nguồn phụ phẩm trồng trọt phong phú để sản xuất than sinh học cung ứng cho thị trường thế giới quy mô 3,3 tỉ USD, nhưng chỉ có hơn 52% khối lượng được thu gom xử lý, phần còn lại bị đốt bỏ hoặc bỏ đi rất lãng phí.
Chia sẻ tại hội thảo tham vấn xây dựng dự thảo Đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải giai đoạn 2025 – 2035, do Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức ngày 30.7 tại Hà Nội, TS Đỗ Thị Hương, cán bộ Nông nghiệp bền vững, Viện Tăng trưởng xanh toàn cầu (GGGI) kiến nghị đưa than sinh học là nguyên liệu đầu vào quan trọng cho nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn và phát thải thấp.
Theo TS Đỗ Thị Hương, mỗi năm ngành trồng trọt có 93,61 triệu tấn phụ phẩm nhưng chỉ có hơn 52% được thu gom và sử dụng. Nguồn phụ phẩm trồng trọt rất đa dạng, phân bố ở nhiều tỉnh, thành trên cả nước và đây là nguyên liệu rất giá trị để sản xuất than sinh học.
Trong đó, sản lượng lớn nhất là rơm, rạ với trên 35 triệu tấn; vỏ trấu trên 9 triệu tấn… đều là nguồn nguyên liệu sản xuất than sinh học chất lượng cao nhưng chưa có cơ sở nào khai thác.
Trong khi đó, thị trường than sinh học trên thế giới có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ từ 156 triệu USD năm 2021 đã tăng lên khoảng 3,3 tỉ USD năm 2025. Các quốc gia tham gia thị trường carbon thế giới đánh giá rất cao tín chỉ carbon từ than sinh học. Một số giao dịch tín chỉ carbon than sinh học đạt mức giá cao tới 200 USD cho mỗi tín chỉ.
Cũng theo TS Đỗ Thị Hương, tại Việt Nam hiện nay, các công ty nhỏ lẻ thường coi than sinh học như một sản phẩm phụ, chưa khai thác đúng giá trị thực. Giá bán từ 2 – 12 triệu đồng/tấn, tùy thuộc vào nguyên liệu và công nghệ ứng dụng. Tổng giá trị thị trường than sinh học trong nước chỉ hơn 1.200 tỉ đồng/năm nhưng đang có tiềm năng tăng trưởng rất lớn thông qua canh tác hữu cơ và tài chính carbon.
Từ đó, TS Đỗ Thị Hương khuyến nghị, trong đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải giai đoạn 2025 – 2035, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần ban hành các quy định rõ ràng, xây dựng hệ thống MRV (đo lường – báo cáo – thẩm định) và cơ chế tín chỉ carbon để tích hợp than sinh học vào hệ thống canh tác phát thải thấp, giảm tình trạng đốt bỏ phụ phẩm trồng trọt ngoài đồng.
Ngoài ra, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần hỗ trợ phát triển thị trường và thúc đẩy hệ sinh thái bằng cách định vị than sinh học là đầu vào quan trọng cho nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn và phát thải thấp; xây dựng các mô hình chứng minh lợi ích kinh tế cho nông dân và doanh nghiệp, bao gồm tăng năng suất và thu nhập từ tín chỉ carbon; phát triển các trung tâm trình diễn vùng để đào tạo, chuyển giao công nghệ và kết nối đầu tư.
TS Đỗ Thị Hương cũng gợi ý, Việt Nam có thể học hỏi bài học, kinh nghiệm từ Hàn Quốc khi quy định sử dụng than sinh học như là phân hữu cơ và có các chương trình trợ giá. Đến nay, Hàn Quốc đã có thị trường than sinh học rất sôi động, tăng trưởng mạnh mẽ.
Nguồn: Trích dẫn từ Tin bài Báo Thanh Niên